SKKN Một số biện pháp giúp học sinh khối 4 học tốt Bài thể dục phát triển chung
Môn thể dục là một trong những bộ phận của nền giáo dục, góp phần làm thay đổi mọi mặt của giáo dục toàn diện có ảnh hưởng rất lớn tới các mặt giáo dục khác, có vị thế hết sức quan trọng trong việc chuẩn bị cho học sinh có đầy đủ khả năng, sức khỏe để tham gia vào cuộc sống sản xuất và bảo vệ tổ quốc. Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng mục tiêu phát triển con người toàn diện, khẳng định tầm quan trọng “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp: công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực”.
Giáo dục thể chất là một phần quan trọng trong hệ giáo dục quốc dân, góp phần giáo dục con người phát triển toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay đang đặt ra cho giáo viên thể dục ở trường tiểu học một đòi hỏi phải làm sao để dạy tốt các bài thể dục có trong chương trình ở bậc tiểu học nói chung, lớp 4 nói riêng. Cụ thể là bài thể dục phát triển chung của chương trình thể dục lớp 4
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp giúp học sinh khối 4 học tốt Bài thể dục phát triển chung

g tác: GV nêu tên động tác, sau đó hô lệnh bắt đầu. Ví dụ: "Động tác vươn thở...bắt đầu". Nhịp hô nhanh hoặc chậm tùy thuộc vào tính chất từng động tác. + Khi hô nhịp cho HS tập phối hợp cả bài: GV vừa hô nhịp, vừa kết hợp nhắc nhở HS và nhịp kết thúc của động tác trước chính là tên của động tác sau. Ví dụ: GV nêu yêu cầu "Bây giờ các em sẽ tập phối hợp bài thể dục phát triển chung. Mỗi động tác 2 lần 8 nhịp. Động tác vươn thở...bắt đầu 1, 2, 3, 4, 5, 6,7, 8; 2, 2, 3, 4, 5, 6, 7, tay 1, 2, 3, 4,...". + Nhịp hô của giáo viên cần to, rõ ràng và phù hợp theo từng động tác. Ví dụ: Động tác: Vươn thở, Điều hoà nhịp hô phải chậm. Động tác: Tay, Lưng-Bụng, Toàn thân, Thăng bằng nhịp hô phải trung bình. Động tác: Chân, Nhảy nhịp hô hơi nhanh. Biện pháp 4: Tổ chức tập luyện theo nhóm đôi, nhóm lớn: - Cũng giống như một số môn khác, sử dụng học tập theo nhóm đôi nhằm giúp cho học sinh phát huy được tính mạnh dạn, tự tin và có điều kiện cùng nhau tiến bộ trong học tập. Đối với phân môn thể dục cũng thế, sau khi giáo viên đã hướng dẫn xong kĩ thuật động tác và tổ chức cho học sinh tập luyện theo lớp mottj số lần kết hợp với quan sát, uốn nắn, sửa sai tại chỗ. Nhưng cứ tập theo đội hình cả lớp như vậy thì sẽ gây nên sự nhàm chán, đơn điệu, mỗi lần giáo viên dừng lại sửa sai cho một em thì cả lớp cũng phải ngưng tập gây lãng phí thời gian. Vậy nên sau một vài lần tập thì giáo viên sẽ chia lớp thành nhiều nhóm đôi, nhóm phân công vị trí cũng như nhiệm vụ cho các nhóm tập luyện. Lợi thế của đội hình tập luyện này là các học sinh có thể giúp đỡ lẫn nhau, chỉ ảo nhau những hình thức mà mình lĩnh hội được, từ đó giúp các em khắc sâu thêm kiến thức, khơi dậy cho các em tinh thần đoàn kết, tự học. Hơn thế nữa, khi tập các động tác khó cần có sự phối hợp của nhiều bộ phận trên cơ thể thì tập theo nhóm đôi, nhóm lớn sẽ giúp học sinh sửa sai cho nhau qua các lời nhận xét, cùng giúp đỡ nhau thực hiện đúng động tác, đồng thời khi dạy theo hình thức này, giáo viên cũng có nhiều thời gian quan sát và sửa sai cho học sinh mà không gây ảnh hưởng tới các học sinh khác. Ví dụ: khi học động tác " Thăng bằng" đối với những cử động khó như gập thân, duỗi chân ra sau, hai tay dang ngang... Học sinh A có thể chỉ cho học sinh B thấy được những cử động tập chưa chính xác, từ đó chỉnh sửa cho đúng với yêu cầu kĩ thuật động tác và ngược lại. Biện pháp 5: Sử dụng phương pháp "thi đua" vào tiết dạy - Đối với phân môn thể dục nói chung và bài thể dục pháp triển chung nói riêng thì khối lượng vận động mỗi tiết học là không nhiều, những bài tập thường đơn điệu, các động tác lặp đi lặp lại nhiều lần nên dễ gây cảm giác nhàm chán trong học sinh. Vậy nên phương pháp học tập này đóng vai trò khá quan trọng trong việc đem lại hiệu quả cho một tiết dạy. Cụ thể, thông qua hình thức học tập này học sinh sẽ phát huy hết khả năng của mình, từ đó kích thích các học sinh khác có tinh thần tự giác tâp luyện, sự hưng phấn trong học tập được nâng lên nhiều lần, giảm bớt được sự uể oải, thiếu tập trung ở một số bộ phận học sinh. Ví dụ: Những tiết ôn tập, một số bộ phận học sinh dễ nhàm chán do kiến thức, thực hành lặp lại nhiều lần. Vậy để đảm bảo cho các đối tượng học sinh hưng phấn tập luyện, tiếp thu tốt kiến thức thì giáo viên tổ chức cho học sinh thi đua tập luyện theo nhóm nhỏ, sau đó tuyên dương động viên những em tập tốt. Biện pháp 6: Sử dụng " Băng đĩa nhạc có lời hô" vào tiết dạy: - Bài thể dục phát triển chung lớp 4 gồm có 8 động tác, thế nhưng khi giảng dạy không phải động tác nào cũng có nhịp hô như nhau mà thyyf thuộc vào từng động tác, có những động tác cần hô chậm và kéo dài để học sinh tập kịp kết hợp phối hợp các bộ phận của cơ thể như: động tác vươn thở, điều hòa; nhưng có động tác cần hô hơi nhanh, hô vừa. Vậy nên khi học sinh tập cả lớp giáo viên nên sử dụng băng đĩa nhạc có lời hô để giúp học sinh thực hiện động tác đúng biên độ. Bên cạnh đó giáo viên có thêm thời gian để quan sát, uốn nắn, sửa sai kịp thời cho từng học sinh đối với những động tác mà các em tập chưa đúng. Đồng thời khi sử dụng băng đĩa nhạc có lời hô vào tiết dạy còn làm cho tiết học thêm phong phú, sinh động, học sinh có hứng thú học tập hơn. Biện pháp 8: Đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình VNEN Phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là phương pháp dạy học lấy học sinh là trung tâm vừa là giá đỡ, vừa là trụ cột chi phối các hoạt động sư phạm trong trường VNEN. Tổ chức lớp học không chỉ phù hợp với phương pháp của VNEN mà còn tạo ra môi trường sư phạm thân thiện, dân chủ, hợp tác giữa các thành viên trong trường và với cộng đồng. Mô hình VNEN sẽ tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh phát huy tốt nhất các năng lực cá nhân và giá trị đích thực của các em. Kiểu cấu trúc bài học được khuyến khích sử dụng trong mô hình VNEN, đó là tổ chức dạy học người ta thường khuyến khích sử dụng quy trình thông qua các hoạt động trải nghiệm, khám phá, phát hiện của học sinh, quy trình gồm 5 bước chủ yếu sau: Gợi động cơ, tạo hứng thú. Trải nghiệm. Phân tích, khám phá, rút ra bài học. Thực hành. Vận dụng. Để làm tốt 5 bước này, đòi hỏi người giáo viên phải tự thiết kế, đạo diễn các hoạt động học tập để giúp học sinh tự phát hiện kiến thức, phân tích kiến thức và sử dụng kiến thức. Biện pháp 7: Bồi dưỡng cán sự thể dục Mỗi tổ có một cán sự để giúp giáo viên, chọn lựa những em có trình độ thể lực tốt, có khả năng tổ chức, tích cực gương mẫu trong học tập có uy tín trong tổ để hướng dẫn các bạn hỗ trợ giáo viên trong tập luyện phát hiện những sai trái của từng động tác báo cáo với giáo viên để sữa sai kịp thời. Biện pháp 8: Phân tích đánh giá giờ dạy: Đánh giá phản ảnh thực trạng đồng thời tìm những biện pháp giải quyết tình hình, sửa chữa sai sót của học sinh sau mỗi tiết dạy, giáo viên cần nhìn lại toàn bộ những khâu lên lớp, tiến hành các bước lên lớp theo đúng kế hoạch đề ra không, nội dung tập luyện có hoàn thành được nhiệm vụ yêu cầu hay không, việc áp dụng hình thức tổ chức và sử dụng các phương pháp giảng dạy có thích hợp có hiệu quả không, khối lượng vận động có phù hợp với yêu cầu của bài và năng lực học sinh, kết quả tập luyện của học sinh tiếp thu đến đâu, tồn tại những gì, tinh thần thái độ và tổ chức kỹ luật của học sinh khi lên lớp ra sao..Những vấn đề được phân tích sau tíết dạy giáo viên phải ghi vào phần cuối giáo án, hoặc sau một học kì, cần phân tích đánh giá khái quát các vấn đề, những vấn đề này được ghi vào sổ công tác chuyên môn. Căn cứ vào thực trạng trên bản thân đưa ra một số giải pháp tập luyện vào tình hình thực tiển của trường để rèn kỉ năng tập bài thể dục phát triển chung, là dạy và học sau cho có thể khơi gợi hứng thú, phát huy được tính tự giác, tích cực của học sinh để hình thành và phát huy đúng năng lực của học sinh. Khi giảng dạy động tác mới, giáo viên nêu tên động tác và làm mẫu động tác hoàn chỉnh một lần, sau đó tập mẫu từng cử động để học sinh bắt chước theo, giáo viên tập mẫu theo kiểu soi gương tức là tập cùng hướng với học sinh. Quá trình thực hiện như vậy cần làm chậm, có thể dừng lâu ở cử động khó hoặc ở cuối nhịp để học sinh quan sát kiểm tra các bạn thực hiện. Giáo viên vừa làm mẫu vừa hô nhịp cho học sinh tập lại lần hai. Những lần đầu tập giáo viên cần tập mẫu và hô nhịp cho học sinh tập, dần dần hướng dẫn để cán sự điều khiển. Sau khi tập động tác tương đối thuần thục, giáo viên cho học sinh tập ôn phối hợp với các động tác trước đến động tác mới học và có sự tập mẫu của giáo viên hoặc cán sự lớp. Vi dụ: Nếu giờ trước học sinh ôn 4 động tác, tiết này học động tác thứ 5, thì giáo viên cho học sinh ôn tập phối hợp 5 động tác. Khi cán sự điều khiển lớp tập bài, giáo viên cần uốn nắn nhịp hô nhanh hay chậm cho cán sự, sau đó mới cho cán sự chủ động điều khiển, giáo viên đi hỗ trợ, giúp đỡ sửa sai cho các em. Để các em tập đều và đẹp thì ở mỗi động tác giáo viên cũng cần nhắc học sinh nắm hướng quay của mặt. Điều đó giúp cho các em quan sát và tự chỉnh sửa được một số chi tíêt của động tác. Ví dụ: Động tác Vươn thở của lớp bốn. + Nhịp 1: Giáo viên nhắc học sinh đưa hai tay song song ra trước, bàn tay sấp, mắt nhìn thẳng, hít sâu vào bằng mũi. + Nhịp 2: Giáo viên nhắc học sinh từ từ hạ tay xuống và thở ra bằng miệng. + Nhịp 2: Giáo viên nhắc học sinh đưa tay từ dưới sang ngang lên cao chếch chữ V, lòng bàn tay hướng vào nhau, đầu ngữa, mắt nhìn theo tay, hít sâu vào bằng mũi. Đối với những động tác khó hoặc một số nhịp động tác khó tập giáo viên có thể cho các em tập đi tập lại nhiều lần ở nhịp đó hoặc động tác đó để các em nhớ và thực hiện thành thục hơn. Ví dụ: Ở động tác 3: Chân của lớp bốn. + Nhịp 2: Hạ chân trái về trước khuỵu gối, chân phải thẳng và kiễng gót, hai tay đưa ra trước, bàn tay sấp. Nhưng khi thực hiện đa số các em thường thực hiện chưa đúng theo yêu cầu của động tác như: Chân sau chưa thẳng. Giáo viên phải cho các em thực hiên lại bài tập để giáo viên hỗ trợ các em sửa sai để tập tốt hơn. Vi dụ: Động tác 5: Toàn thân của lớp 4. + Nhịp 1: Đưa chân trái sang ngang mũi bàn chân duỗi thẳng, đồng thời hai tay dang ngang, bàn tay sấp. + Nhịp 2: Hạ chân trái chạm đất rộng hơn vai, khuỵu gối; đồng thời hai tay chống hông (bốn ngón phía trước, ngón cái phía sau dồn trọng tâm nhiều lên chân trái). + Nhịp 3: Quay thân trên sang trái trọng tâm dồn nhiều lên chân trái. Đa số khi các em thực hiện ở nhịp 1 mũi chân chưa duỗi thẳng, hai tay dang ngang chưa thẳng, ở nhịp 2 đặt chân xuống đất chưa rộng hơn vai, chưa dồn trọng tâm lên chân trái, còn ở nhịp 3 khi quay thân trên sang trái các em còn quay chưa thẳng hướng. Giáo viên nên cho các em tập chậm từng cử động rồi mới cho thực hiện theo nhịp, không cho các em thực hiện vội vàng dễ gây nên loạn nhịp. Vi dụ: Động tác 7: Nhảy ở lớp 4. Các em thực hiện động tác còn giật cục, bật nhảy không nhịp nhàng. Giáo viên nên cho các em thực hiện ở những lần đầu bật nhảy chậm từng nhịp và phối hợp với động tác của tay, sau đó mới cho các em thực hiện nhanh dần. Ví dụ: Động tác 8: Điều hoà ở lớp 4. Động tác của các em còn tập còn gò bó, không thả lỏng cơ thể, chưa kết hợp với hít thở sâu. Giáo viên là người điều khiển cần hô nhịp chậm, động tác nhẹ nhàng và nhắc các em kết hợp với hít thở sâu và thả lỏng tích cực. Trong khi ôn tập động tác đã học giáo viên cần luôn thay đổi hình thức tập luyện cho phong phú để các em không bị nhàm chán. Ví dụ: Ôn tập 4 động tác: Vươn thở, Tay, Chân, và Lưng- bụng. Trước khi giáo viên điều khiển các em ôn bài, giáo viên nêu tên từng động tác rồi mới thực hiện động tác. Sau đó mới chia tổ, phân công giao nhiêm vụ cho các tổ trưởng. Trong quá trình tập luyện theo tổ giáo viên cần canh thời gian để học sinh chuyển nội dung cho kịp thời, tiếp theo giáo viên tổ chức cho các em tập thi đua theo tổ hoặc cá nhân với các hình thức sau: + Mỗi tổ (cá nhân) lên thực hiện một trong bốn động tác theo phiếu bóc thăm, tổ hoặc cá nhân thực hiện tốt sẽ được ghi nhận đánh dấu vào sổ theo dõi học tập. + Cho học sinh tập dưới dạng thi đua tập đúng, tập đẹp có phân thắng - thua có thưởng và phạt hoặc đánh dấu theo dõi vào sổ. + Động viên học sinh xung phong hoặc mỗi tổ cử đại diện lên thi đua xem ai tập đúng tâp đẹp nhất. + Các tổ còn lại quan sát nhận xét. GV chốt. PHẦN KẾT LUẬN - Qua bước đầu vận dụng những biện pháp trên, để giảng dạy môn thể dục nói chung phân môn bài thể dục phát triển chung nói riêng. Tôi nhận thấy bản thân tự tin và chủ động hơn khi dạy bài thể dục phát triển chung, tiết dạy trở nên sôi nổi, tất cả học sinh đều ham học thể dục, tham gia tập luyện tích cực và nhiệt tình, thực hiện các động tác đúng biên độ và phương hướng, trong mỗi tiết học các em thường xuyên được rèn thân thể nên sức khoẻ các em được nâng lên rõ rệt, mức độ hoàn thành tốt trong kiểm tra được tiến bộ hẳn, không có học sinh nào đạt chưa hoàn thành. - Với kết quả đạt được qua áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ở cơ sở. Tôi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Thể dục cũng như góp phần nâng cao chất lượng học tập môn Thể dục của học sinh mà trường tôi đang công tác. * Nội dung: "Khảo sát nội dung thực hiện các động tác bài thể dục phát triển chung lớp 4" TSHS Thực hiện động tác bài thể dục Đạt Chưa đạt SL % SL % 40 40 100 0 0 Qua bảng thống kê cho thấy kết quả giảng dạy bài thể dục phát triển chung lớp 4 đã có sự chuyển biến rõ rệt. Bài học kinh nghiệm Để đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động theo hướng tích cực hóa, cũng như để đáp ứng các yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học thể dục trong giai đoạn hiện nay, tạo ra môi trường cung cấp cho xã hội những con người có sức khỏe tốt, thể lực cường tráng, dẻo dai. Bản thân tôi rút ra một số bài học sau: + Cần sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, chú ý tập trung vào việc phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh. Thường xuyên sử dụng các phương pháp dạy học đặc trưng của môn học để giúp học sinh nhanh chóng lĩnh hội được kiến thức cơ bản. + Đối với những động tác khó, giáo viên phải hướng dẫn và làm mẫu từng cử động sau đó mới tiến hành hướng dẫn và làm mẫu toàn bộ động tác. + Phân bố thời gian tiết học hợp lí, sao cho tất cả các học sinh được thực hành tập luyện nhiều lần, chú ý đặc điểm cá biệt của học sinh, ưu tiên sử dụng chia tổ, nhóm nhỏ để tập luyện. + Kết hợp giữa nội dung học tập và trò chơi ở mức hợp lí, thường xuyên áp dụng phương pháp trò chơi, thi đua, để kích thích sự hưng phấn tập luyện ở học sinh, góp phần giảm sự nhàm chán ở một số học sinh. + Khi hướng dẫn kĩ thuật động tác cần giải thích ngắn gọn, dễ hiểu, giáo viên làm mẫu phải chuẩn xác và chọn vị trí đứng làm mẫu thích hợp. + Cần khuyến khích sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các em, giờ học nên diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng. + Cần sử dụng băng đĩa nhạc có lời hô vào việc dạy học nhằm làm cho lớp học trở nên sinh động, giảm thời gian làm việc cho giáo viên, từ đó có điều kiện uốn nắn, sửa sai kịp thời. Phạm vi áp dụng Gồm 8 động tác của bài thể dục phát triển chung lớp 4. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt bài thể dục phát triển chung. ĐỀ XUẤT - KIẾN NGHỊ Về phía Phòng GD- ĐT, Sở GD-ĐT. Có kế hoạch tổ chức các lớp tập huấn trong năm để giáo viên có cơ hội được giao lưu, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy. Về phía ban giám hiệu, nhà trường. Nhà trường tạo điều kiện bố trí thời gian hợp lý buổi sáng tránh dạy tiết 4, buổi chiều tránh dạy tiết 1. Cung cấp thêm ít bộ tranh TD – PTC.Hiện tại các bộ đã cũ. Về phía giáo viên. Không ngừng học tập, trau dồi kiến thức. Học tập thêm kinh nghiệm từ những đồng nghiệp, online Thực sự dành trọn tâm huyết để giảng dạy, giúp học sinh có tính tự giác tập luyện khi nhắc đến việc học môn TD. Về phía phụ huynh. Quan tâm hơn nữa đến việc học tập, rèn luyện TDTT của con em mình. Đề tài này tuy rằng đã hoàn thành nhưng trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Do vậy tôi mong rằng sẽ nhận được nhiều hơn nữa những ý kiến đóng góp, bổ sung của quý đồng nghiệp, lãnh đạo để đề tài được hoàn thiện hơn. XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG NGƯỜI THỰC HIỆN Nguyễn Quốc Dũng
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_khoi_4_hoc_tot_bai_the_d.docx
Một số biện pháp giúp học sinh khối 4 học tốt Bài thể dục phát triển chung.pdf